Chia sẻ tại tọa đàm "Hãy cùng hành động góp phần xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và bé gái" vừa diễn ra tại TP HCM, tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu (Phó tổng thư ký Hội khoa học Lịch sử Việt Nam) cho biết có những người mẹ khi con bị lạm dụng không dám lên tiếng vì sợ nếu nói ra thì con sẽ không sống được với lời đàm tiếu của thiên hạ. Dư luận xã hội thực sự là một sức ép với nạn nhân của các vụ bạo hành. Một cô gái bị bạo hành tình dục, ngay lập tức nhiều người sẽ nghĩ rằng lỗi là do cô gái đó đã lẳng lơ.
Vì thế, nhiều nạn nhân thà im lặng còn hơn là khiến mọi việc vỡ lở, họ sẽ không biết đi đâu để sống. Bản năng của dư luận khi gặp một việc gì đó là nói, đôi khi nói để nói chứ không nghĩ đến hậu quả. "Tôi chỉ mong trước mỗi sự kiện, chúng ta đừng vội buông ra một lời nào đó làm tổn thương người khác, dù là ngoài đời hay trên mạng xã hội", bà Hậu lên tiếng.
Người phụ nữ có khả năng chịu đựng tốt hơn, nhưng như thế không có nghĩa là cộng đồng có quyền làm tổn thương họ. Xét riêng bạo hành phụ nữ trong gia đình, nhiều người không thấy quá bức xúc, không thấy là chuyện lớn khi chứng kiến một người vợ bị chồng đánh. Tuy nhiên, nếu người vợ đánh chồng thì thực sự là một hiện tượng và cô vợ đó là không thể chấp nhận. “Quan niệm của xã hội Việt Nam tồn tại từ lâu, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân. Đây là sự thiếu bình đẳng giới, cần phải được thay đổi”, bà Hậu nói.
Cùng nói không với bạo hành phụ nữ và bé gái. Ảnh: Kim Anh. |
Bạo hành gia đình bằng cách đánh đập thể xác đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Ngày nay có những hình thức bạo hành khác, tinh vi hơn mà nhiều nạn nhân không biết rằng mình đang bị bạo hành. Theo tiến sĩ Hậu, đó là bạo hành tinh thần, bạo hành tình dục, bạo hành xã hội và bạo hành thai nhi. Bạo hành tinh thần thể hiện qua chửi mắng, xúc phạm... Hậu quả của nó đôi khi còn dai dẳng và đau đớn hơn cả bạo hành thể chất. Đa số bạo hành tinh thần xuất hiện ở các gia đình trí thức bởi nhiều người muốn giữ thể diện gia đình nên âm thầm chịu đựng những chì chiết, lạnh nhạt của người bạn đời.
Đặc biệt, có nhiều người vợ không hề biết mình đang bị chồng bạo hành tình dục. Tình dục phải là sự thăng hoa của tình yêu, sự đồng thuận vui vẻ của cả hai người chứ không thể chỉ nghĩa vụ, bị chồng ép buộc. Nếu hai người không phải là vợ chồng, pháp luật có thể dễ dàng kết tội người đàn ông, nhưng khi họ đã là vợ chồng thì lại rất khó. Thực tế, không người phụ nữ nào muốn kể ra chuyện này, bởi họ sợ sẽ bị đánh giá.
Bạo hành xã hội là khi chồng ngăn không chovợ tiếp xúc với gia đình, bạn bè, bao vây kinh tế nhằm hạn chế các hoạt động mang tính cộng đồng.
Cuối cùng là một dạng bạo hành xuất hiện nhiều ở những quốc gia có tỷ lệ sinh đẻ cao và vẫn còn tư tưởng trọng nam khinh nữ: Bạo lực thai nhi. Trong nhiều gia đình Việt, khi biết vợ mang bầu bé gái, chồng và gia đình chồng ghẻ lạnh, không quan tâm đến thai phụ, thậm chí có những bà mẹ bị buộc phải bỏ thai. Bạo hành theo cách này không chỉ ảnh hưởng tới mẹ mà còn tới cả sự phát triển, tâm lý của đứa trẻ sau này.
Nhận định về nguyên nhân dẫn đến các vụ bạo hành, tiến sĩ Hậu cho rằng trước hết do quan niệm xã hội vẫn chưa có sự bình đẳng khi đánh giá phụ nữ và nam giới. Người ta vẫn khuyên phụ nữ phải nhún nhường, nên nhìn lại mình khi gia đình có vấn đề, tiên trách kỷ hậu trách nhân. Người phụ nữ bị mang nhiều áp lực phải chịu nhịn. Thứ hai là vị thế của người phụ nữ trong gia đình chưa được coi trọng, do điều kiện kinh tế kém chồng hoặc học vấn thấp.
Ngoài ra, nhiều nạn nhân vẫn không nhận thức được quyền của mình. Luật Phòng chống bạo lực gia đình Việt Nam đã có hiệu lực từ năm 2008 nhưng không phải ai cũng biết. Trong khoảng hơn 200 người tham dự tọa đàm, đa số là sinh viên tại TP HCM, chỉ có 2 người giơ tay xác nhận biết về luật này. Tất cả những vụ bạo hành gia đình đều được giải quyết từ hòa giải ở phường xã, hòa giải xong thường đâu vào đó. Nếu người phụ nữ kiện lên quận huyện, lúc đó chỉ còn một mình họ mà không có sự hỗ trợ của những người xung quanh, vì thế họ thường ngần ngại.
Quan niệm người bị đánh có lỗi không chỉ xuất hiện ở Việt Nam. Tại Mỹ, nơi vụ án đầu tiên xử chồng đánh vợ vi phạm pháp luật đã diễn ra từ năm 1824, người ta vẫn quan niệm người phụ nữ có lỗi nên bị đánh. Bà Malikat Rufai, tùy viên văn hóa Tổng lãnh sự quán tại TP HCM kể lại lời một viên cảnh sát: “Nếu người bị bạo hành báo với cảnh sát ngay thì chắc chắn là lỗi của người đàn ông, nhưng nếu người đó không dám tố cáo thì đó là lỗi của cô ta".
Theo tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu và bà Trần Thị Ái Liên (người sáng lập tổ chức Bạn của Bé), để giải quyết bạo hành gia đình đối với phụ nữ và trẻ em gái, cần phải bắt đầu từ giới trẻ. Khi đứa bé bắt đầu biết nhận thức, xã hội phải tuyên truyền đến các em về quyền con người, sự bình đẳng giới để các em ý thức vấn đề bạo hành trong gia đình.
Hãy coi bạo hành gia đình là vấn đề xã hội nhưng cũng là vấn đề của chính gia đình mình. Gia đình phải thống nhất quan điểm không để xảy ra tình trạng bạo hành. Bản thân cha mẹ cũng không được phép bạo hành với con trẻ. "Nếu từ nhỏ, đứa trẻ đã bị bố mẹ bạo hành thì trong tiềm thức của nó đã quen với việc này và sau này nó sẽ là người thực thi bạo hành", bà Ái Liên nhận xét.
Nhiều người có thể biện minh rằng thương cho roi cho vọt, như thế là ngụy biện. "Không thể lấy kết quả biện minh cho hành động, không thể nói vì thương con mà đánh con. Dù kết quả có tốt đến đâu thì hành động đó cũng là hành động sai. Từ chối bạo lực phải hai chiều: Không sử dụng bạo lực và không sợ hãi bạo lực", bà Liên nói.
Còn bà Malikat Rufai cho rằng, một quốc gia được đánh giá là có văn minh hay không cũng dựa vào tình trạng bạo hành gia đình. "Thế giới không thể gọi là văn minh, nếu có trên 50% dân số cảm thấy bất an, lo lắng".
Kim Anh